Chuyên mục nghiên cứu trao đổi

Cải cách chính sách tiền lương đối với lao động trong các loại hình doanh nghiệp giai đoạn 2011 - 2020

Chính sách tiền lương là một trong các chính sách quan trọng trong an sinh xã hội, có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng triệu người lao động. Thực hiện chính sách tiền lương đúng sẽ trở thành động lực phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

 

Phiên bế mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII

Thực hiện đường lối “Đổi mới” của Đảng chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm thay đổi sâu sắc từ nhận thức đến hành động trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động – tiền lương. Dựa trên nguyên tắc coi tiền lương là cả sức lao động hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống chính sách, pháp luật về tiền lương được ban hành, bước đầu đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hơn, người lao động có việc làm và tiền lương, thu nhập ổn định, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, chính sách tiền lương trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định như: hệ thống lương tối thiểu chưa thực sự phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, mức lương tối thiểu chưa đạt mức sống tối thiểu, độ bao phủ còn thấp; thang lương, bảng lương, cơ chế trả lương chưa hoàn toàn theo nguyên tắc thị trường, trả lương chưa thực sự gắn với năng suất lao động và hiệu quả công việc; chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng đại diện chủ sở hữu (vốn) về lao động, tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước,… điều này tạo sự cạnh tranh chưa bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. 

Trước yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,… đòi hỏi chính sách tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh thời gian tới cần phải tiếp tục có những cải cách nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây cũng chính là nhiệm vụ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang triển khai xây dựng các nội dung về cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018, Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018, Kế hoạch số 547-KH/BCSĐ ngày 12/9/2018 của Ban cán sự Đảng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, Quyết định số 1477/QĐ-LĐTBXH ngày 25/10/2018 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về kế hoạch triển khai thực hiện phân công của Chính phủ tại Nghị quyết số 107/NQ-CP.

1. Chính sách tiền lương hiện hành

1.1. Chính sách tiền lương chung đối với doanh nghiệp

Thứ nhất, Bộ luật Lao động năm 2012 và các Nghị định của Chính phủ quy định về chính sách tiền lương đối với người lao động trong các doanh nghiệp với nội dung cơ bản như sau:

Tiền lương được coi là khoản tiền để trả công lao động, được hình thành thông qua sự thương lượng, thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động trong hợp đồng lao động; tiền lương trả cho người lao động được căn cứ vào năng suất và kết quả lao động của người lao động.

Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng dựa trên khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia, đây là mức lương thấp nhất để bảo vệ lao động yếu thế và cũng là cơ sở để người lao động và người sử dụng lao động thương lượng, thỏa thuận tiền lương (doanh nghiệp không được trả thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định).

Doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc xây dựng thang lương, bảng lương (kể cả tiêu chuẩn, điều kiện xếp lương, nâng bậc lương), định mức lao động theo các nguyên tắc do Chính phủ quy định, quy định hình thức trả lương làm cơ sở để thỏa thuận tiền lương trong hợp đồng lao động và trả lương cho người lao động.

Doanh nghiệp có trách nhiệm trả lương cho người lao động trực tiếp, đầy đủ, đúng kỳ hạn theo quy định; trả lương cho người lao động khi làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trả lương cho những ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ phép năm, trả lương khi ngừng việc…

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp thông qua việc ban hành tiêu chuẩn tiền lương; tuyên truyền, hướng dẫn; kiểm tra, giám sát thực hiện; cung cấp thông tin thị trường lao động, hỗ trợ, kết nối doanh nghiệp và người lao động thương lượng tiền lương. 

Thứ hai, căn cứ quy định của Bộ luật Lao động, doanh nghiệp và người lao động được tự chủ trong thương lượng, thỏa thuận tiền lương gắn với công việc, điều kiện làm việc và ghi trong hợp đồng lao động; tiền lương trả cho người lao động gắn với năng suất và kết quả (chất lượng) công việc đã thỏa thuận, bảo đảm mức lương trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động và thời giờ làm việc bình thường, hoàn thành định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố.

1.2. Chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước

Căn cứ các kết luận của Trung ương, với tư cách là chủ sở hữu vốn nhà nước, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện, đổi mới quản lý lao động, tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước thông qua việc ban hành Nghị định số 51/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 và Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 quy định tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; Nghị định số 53/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 quy định quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước. Nội dung cơ bản như sau: 

Thứ nhất, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

Về quản lý lao động, doanh nghiệp tiếp tục được tự chủ tuyển dụng, sử dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động, nhưng quy định rõ trách nhiệm rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy tinh gọn và hợp lý; thắt chặt hơn định mức lao động bảo đảm không chênh lệch quá 5% so với lao động thực tế sử dụng; thẩm quyền, trách nhiệm trong tuyển dụng, sử dụng lao động; chế tài xử lý đối với trường hợp tuyển dụng vượt quá kế hoạch hoặc không đúng kế hoạch, dẫn đến người lao động không có việc làm, phải chấm dứt hợp đồng lao động như: không được thưởng, không được tăng lương, kéo dài thời gian nâng lương, giảm lương và coi đây là một nội dung đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ theo quy định tại Nghị định số 97/2015/NĐ-CP ngày 19/01/2015 của Chính phủ.

Giao cho doanh nghiệp tự chủ xây dựng thang lương, bảng lương đối với người lao động theo nguyên tắc do Nhà nước quy định theo quy định của Bộ luật Lao động làm cơ sở để ký kết hợp đồng lao động, xếp lương, trả lương đối với người lao động (tương tự như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI); xác định, quyết định quỹ tiền lương và trả lương cho người lao động; xác định quỹ tiền lương đối với người quản lý doanh nghiệp, báo cáo chủ sở hữu phê duyệt trước khi chi trả cho người quản lý gắn với kết quả quản lý điều hành doanh nghiệp.

Quy định quản lý tiền lương đối với người lao động gắn chặt hơn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, trong đó tiền lương được hưởng dựa trên tiền lương bình quân thực hiện của năm trước (thay cho định mức lao động, đơn giá tiền lương) gắn với mức tăng năng suất lao động và lợi nhuận theo nguyên tắc: năng suất lao động, lợi nhuận tăng thì tiền lương tăng; năng suất lao động, lợi nhuận giảm thì tiền lương giảm so với năm trước.

Quy định tiền lương của người quản lý được xác định gắn với quy mô, mức độ phức tạp của quản lý (hạng doanh nghiệp) tương ứng với mức lương cơ bản (tối đa của chủ tịch tập đoàn kinh tế là 36 triệu đồng/tháng) và hệ số điều chỉnh tăng thêm gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nhưng mở rộng hệ số tăng thêm tối đa 1,0 lần mức lương cơ bản áp dụng đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, hiệu quả cao (đảm bảo quy định thì chủ tịch tập đoàn có thể đạt 72 triệu đồng/tháng). Đồng thời, để khuyến khích doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch thì được hưởng thêm: cứ tăng 1% lợi nhuận so với kế hoạch thì được bổ sung thêm 1% tiền lương, nhưng tối đa không quá 20% tiền lương kế hoạch (đạt đủ điều kiện thì chủ tịch tập đoàn kinh tế có thể đạt 86,4 triệu đồng/tháng).

Thứ hai, đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước

Nhà nước quy định nguyên tắc để người đại diện vốn của nhà nước tham gia, biểu quyết trong Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông về quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong công ty, như tiền lương, thù lao, tiền thưởng phải gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh; việc quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng được thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước chỉ đạo Người đại diện vốn nhà nước, không can thiệp trực tiếp đến tiền lương, tiền thưởng của công ty.

Quy định quản lý lao động, tiền lương đối với người lao động, trong đó công ty được quyền tự chủ tuyển dụng, sử dụng lao động; xác định quỹ tiền lương (kế hoạch và thực hiện) phải gắn với năng suất lao động, mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh (lợi nhuận) và đảm bảo mức tăng tiền lương bình quân phải thấp hơn mức tăng năng suất lao động bình quân.

Quy định tiền lương đối với người quản lý công ty gắn với bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, với cổ đông; với người lao động trong đó: Đối với người quản lý công ty là người đại diện phần vốn nhà nước thì nhà nước quy định mức tiền lương tối đa gắn với quy mô lợi nhuận dưới 50 tỷ đồng không quá 36 triệu đồng/tháng (gọi là mức lương cơ bản); lợi nhuận từ 1.500 tỷ đồng trở lên không quá 3,5 lần mức lương cơ bản (tương đương 126 triệu đồng/tháng). Đối với người quản lý không phải là người đại diện vốn nhà nước thì tiền lương do Hội đồng quản trị quyết định trên cơ sở vị trí công việc, bảo đảm cân đối với chức danh tương tự trên thị trường và tiền lương của người đại diện vốn nhà nước tại công ty.

Đồng thời, để khuyến khích người quản lý, Chính phủ quy định nguyên tắc xác định tiền lương tăng thêm gắn với mức độ hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận: nếu lợi nhuận thực hiện vượt lợi nhuận kế hoạch thì cứ vượt 1% lợi nhuận, người quản lý công ty được tính thêm 2% tiền lương, nhưng tối đa không quá 20% mức tiền lương bình quân kế hoạch (theo quy định này người quản lý có thể đạt 151,2 triệu đồng/tháng). 

Quy định chế độ tiền thưởng căn cứ lợi nhuận hằng năm sau khi hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm với Nhà nước, cổ đông, người lao động: Quỹ khen thưởng, phúc lợi của người lao động, tối đa không quá 03 tháng tiền lương thực hiện (Nếu lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch thì được trích thêm tối đa 20% phần lợi nhuận vượt nhưng không quá 3 tháng lương thực hiện). Đối với người quản lý: quỹ tiền thưởng không quá 1,5 tháng tiền lương thực hiện.

Quy định trách nhiệm của người đại diện vốn nhà nước trong việc xin  ý kiến của chủ sở hữu, thực hiện ý kiến chỉ đạo của chủ sở hữu trong việc triển khai thực hiện các quy định của nhà nước khi xác định, biểu quyết về tiền lương, tiền thưởng trong công ty cổ phần có vốn góp chi phối của nhà nước.

2. Yêu cầu đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương

2.1. Quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến chính sách tiền lương trong các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Năm khóa XII

Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa: Có cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp tư nhân; Khuyến khích hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp. Xoá bỏ các rào cản, chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trọng tâm là vốn và đất đai, cơ hội kinh doanh. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các Bộ, ngành, địa phương đối với việc chấp hành chủ trương phát triển kinh tế tư nhân.

Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế; xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác; Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng; điều tiết nền kinh tế. Đẩy mạnh cải cách chế độ tiền lương, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng năng suất lao động và tăng tiền lương, lấy tăng năng suất lao động làm cơ sở để tăng tiền lương; hình thành cơ chế tiền lương theo nguyên tắc thị trường; bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn ở doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới, và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp khác. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích; tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Giải quyết tốt việc sắp xếp, bố trí, sử dụng, đào tạo, chuyển đổi nghề và xử lý lao động dôi dư. Bảo đảm đầy đủ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động, đặc biệt là lao động dôi dư. Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh quản lý trong hệ thống quản trị của doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm trách nhiệm đi đôi với quyền hạn; Tổng giám đốc và các thành viên ban điều hành được bổ nhiệm, thuê và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và hợp đồng lao động. Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường, có tính cạnh tranh cao trên cơ sở kết quả sản xuất, kinh doanh. Nghiên cứu, triển khai cơ chế trả lương, thưởng theo thỏa thuận đối với tổng giám đốc và một số chức danh quản lý chủ chốt của doanh nghiệp. Thực hiện việc tách người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức. Triển khai rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí công việc khác trong doanh nghiệp.

Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp: Cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và nguồn lực của đất nước. Trong khu vực doanh nghiệp, tiền lương là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một trong những căn cứ để thoả thuận tiền lương và điều tiết thị trường lao động. Phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.

2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với chính sách tiền lương hiện hành 

Nhìn chung, chính sách tiền lương đối với khu vực sản xuất kinh doanh hiện nay đã được đổi mới, hoàn thiện theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với yêu cầu thực tiễn, trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ của doanh nghiệp và người lao động trong thỏa thuận, định đoạt tiền lương. Nhà nước đã thực hiện đúng vai trò quản lý tiền lương (chủ yếu thông qua quy định mức lương tối thiểu, hỗ trợ thương lượng, kiểm tra, giám sát, điều tiết thị trường) theo cơ chế thị trường. Tuy vậy, căn cứ quan điểm, yêu cầu của Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Năm, khóa XII thì chính sách tiền lương hiện nay còn một số nội dung bất cấp, cần tiếp tục hoàn thiện cụ thể: 

Về chính sách tiền lương chung đối với doanh nghiệp, phạm vi điều chỉnh của mức lương tối thiểu chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động nên còn hạn hẹp, dẫn đến việc bảo vệ người lao động còn hạn chế. Bên cạnh đó, hiện nay Chính phủ mới quy định tiền lương tối thiểu theo tháng, chưa quy định được mức lương tối thiểu theo giờ nên không bảo vệ được người làm công việc không thường xuyên, lao động làm việc không trọn thời gian đang có xu hướng phổ biến trên thị trường hiện nay; các yếu tố xác định, điều chỉnh mức lương tối thiểu chưa cụ thể, bao quát đầy đủ đặc điểm của thị trường lao động, sản xuất kinh doanh, nhất là trong điều kiện tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân (chủ yếu doanh nghiệp nhỏ và vừa) hình thành và phát triển.

Việc Chính phủ quy định các nguyên tắc xây dựng thang, bảng lương, nhất là quy định thang, bảng lương phải bảo đảm khoảng cách bậc ít nhất 5% chỉ phù hợp với giai đoạn đầu nhằm hạn chế tính trạng ép lương của người lao động. Đến nay, quy định này không còn phù hợp, vì vô hình chung đã can thiệp trực tiếp đến thang, bảng lương của doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp trả lương theo thâm niên, không khuyến khích trả lương theo năng suất lao động. Người làm nhiều, năng suất cao không được hưởng lương cao tương xứng. Đồng thời, đã làm triệt tiêu động lực thương lượng của 2 bên để có tiền lương cao hơn, không thúc đẩy xây dựng chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động, nâng cao năng suất lao động để nâng cao tiền lương, tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.

Vấn đề thương lượng tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động nhìn chung chưa phát huy được tác dụng, kém hiệu quả, tranh chấp lao động về tiền lương còn phổ biến. Trong bối cảnh hiện nay sức ép việc làm còn rất lớn, năng lực thỏa thuận của người lao động hạn chế, thông tin tiền lương còn thiếu, công tác hướng dẫn, tuyên truyền chưa đầy đủ, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa thường xuyên dẫn đến thương lượng tiền lương vẫn chủ yếu đối với lao động quản lý và lao động chuyên môn, kỹ thuật cao. Đối với lao động khác thì tiền lương do doanh nghiệp ấn định gần với mức lương tối thiểu hoặc cao hơn không đáng kể, người lao động thường chấp nhận mức lương thấp, phải làm thêm giờ để tăng thêm thu nhập, đời sống của một bộ phận người lao động khó khăn là nguyên nhân chính của các cuộc tranh chấp lao động.

Về chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước, chính sách quản lý lao động chưa quy định rõ trách nhiệm cá nhân của Tổng giám đốc (Giám đốc), Hội đồng thành viên trong tuyển dụng, sử dụng lao động, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu dẫn đến nhiều trường hợp tuyển dụng lao động chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu công việc, gắn với vị trí việc làm, số lượng lao động nhiều, chất lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến số lao động dưa thừa khi tái cơ cấu ngày càng nhiều Nhà nước vẫn phải tiếp tục sắp xếp, tái cơ cấu lao động và giải quyết lao động dôi dư.

Tiền lương của người lao động được xác định trên tiêu chí, nguyên tắc chung (gắn với năng suất lao động, lợi nhuận), chưa phân biệt được yếu tố lợi thế ngành nghề, yếu tố nguồn lực nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp, dẫn đến tiền lương của người lao động vẫn có sự chênh lệch khá lớn giữa các doanh nghiệp ở ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác nhau, hưởng mức lương cao (gấp 2 – 3 lần bình quân chung) nhưng không hoàn toàn do năng suất lao động tạo ra.

Tiền lương, tiền thưởng đối với viên chức quản lý mặc dù đã được điều chỉnh một bước, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp (chỉ bằng khoảng 50%) so với các chức danh quản lý tương đương trên thị trường nên chưa tạo được động lực cho những người quản lý giỏi, doanh nghiệp có hiệu quả cao theo chủ trương “Nhà nước có cơ chế khuyến khích thoả đáng về vật chất, tinh thần đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp căn cứ vào mức độ đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp”, dẫn đến khó thực hiện được chủ trương thuê Tổng giám đốc, Giám đốc. Một số trường hợp doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ nhưng đưa ra nhiều lý do khách quan, viên chức quản lý vẫn hưởng mức lương cao (vài chục triệu đồng/tháng) gây bức xúc dư luận. 

Chưa tách bạch giữa tiền lương, tiền thưởng của đại diện chủ sở hữu (Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên do đại diện chủ sở hữu bổ nhiệm để giúp chủ sở hữu giám sát doanh nghiệp) với ban quản lý điều hành (Ban Giám đốc), dẫn đến Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên vẫn hưởng lương chung với Ban giám đốc và chủ yếu đứng về phía doanh nghiệp, do doanh nghiệp chi trả, làm giảm tính khách quan, độc lập và hiệu quả trong giám sát, chỉ đạo doanh nghiệp. 

Chính sách tiền lương quy định phân biệt giữa doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước, trong đó tiền lương của người quản lý doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chỉ bằng 50 – 60% so với doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước có cùng quy mô, hiệu quả, tạo sự mất cân đối trong chính sách (quy định này cần được điều chỉnh cho phù hợp với Nghị quyết số 12-NQ/W coi doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối). 

Quản trị lao động trong nội bộ doanh nghiệp còn yếu, tổ chức sắp xếp lao động chưa khoa học, tiền lương chưa theo vị trí công việc, còn bình quân, trả cho lao động có trình độ thấp cao hơn trên thị trường, ngược lại trả cho lao động kỹ thuật cao thấp hơn so với thị trường, dẫn đến chưa khuyến khích được lao động giỏi, đóng góp nhiều cho doanh nghiệp, chuyển dịch lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao sang khu vực doanh nghiệp khác, trong khi lao động trình độ thấp vẫn cố gắng bám vào doanh nghiệp nhà nước khó khăn cho việc tái cơ cấu lao động.

3. Định hướng hoàn thiện, cải cách chính sách tiền lương

Để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương đối với khu vực sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Bảy khóa XII, trong đó cải cách chính sách tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp trên một số nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, tiếp tục khẳng định tiền lương trong khu vực doanh nghiệp là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo quy luật của thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. 

Thứ hai, hoàn thiện chính sách về tiền lương tối thiểu cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập khu vực và quốc tế, trong đó quy định mức lương tối thiểu theo giờ nhằm nâng cao độ bao phủ của tiền lương tối thiểu và đáp ứng tính linh hoạt của thị trường lao động; xác định và điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động, đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của thị trường lao động và phát triển kinh tế – xã hội (cung cầu lao động, tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, năng suất lao động, việc làm, thất nghiệp, khả năng chi trả của doanh nghiệp…).

Thứ ba, giảm dần, tiến tới xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước để các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) được tự chủ quyết định chính sách tiền lương (trong đó có thang, bảng lương, định mức lao động) và trả lương phù hợp với tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, khả năng của doanh nghiệp và công khai tại nơi làm việc để người lao động, công đoàn giám sát. Nhà nước tăng cường hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường lao động để doanh nghiệp và người lao động thương lượng, thỏa thuận tiền lương, ký hợp đồng lao động và trả lương gắn với năng suất và kết quả lao động. Doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động tham gia thương lượng, thỏa thuận tiền lương, tiền thưởng, các chế độ khuyến khích khác trong thỏa ước lao động tập thể hoặc trong quy chế của doanh nghiệp.

Thứ tư, hoàn thiện cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh nghiệp thông qua việc thiết lập cơ chế đối thoại, thương lượng và thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ lao động theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, tạo sự đồng thuận cao; tăng cường vai trò và năng lực của tổ chức đại diện của người lao động trong quan hệ lao động phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 

Thứ năm, đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước (quy định chung đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và công ty cổ phần, vốn góp chi phối theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW), trong đó:

Giao quyền cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước xây dựng bảng lương, mức lương đối với người quản lý doanh nghiệp, bảo đảm cân đối hợp lý với mức lương của người lao động trong nội bộ từng doanh nghiệp (hiện nay người quản lý đang xếp lương theo bảng lương do Chính phủ ban hành trong mối tương quan với tiền lương của cán bộ, công chức nhà nước). 

Nhà nước quy định nguyên tắc chung để xác định tiền lương và tiền thưởng gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh, hướng đến bảo đảm mặt bằng tiền lương trên thị trường. Thực hiện giao khoán chi phí tiền lương (bao gồm cả tiền thưởng trong quỹ lương) gắn với chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh, ngành nghề, tính chất hoạt động của doanh nghiệp; từng bước tiến tới thực hiện giao khoán chỉ tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh gắn với kết quả và hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp.

Tách bạch tiền lương của người đại diện vốn nhà nước (Hội đồng thành viên, kiểm soát viên) với tiền lương của Ban điều hành; thực hiện nguyên tắc ai thuê, bổ nhiệm thì người đó đánh giá và trả lương.
Nhà nước quy định mức lương cơ bản (theo năm) gắn với quy mô (độ phức tạp của quản lý) và hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đối với Người đại diện vốn nhà nước. Mức lương cơ bản được điều chỉnh phù hợp theo mức lương của thị trường trong nước và khu vực. Từng bước tiến tới thuê Hội đồng thành viên độc lập và trả lương cho Hội đồng thành viên, kiểm soát viên từ lợi nhuận sau thuế. Ban điều hành làm việc theo chế độ hợp đồng lao động và hưởng lương trong quỹ lương chung của doanh nghiệp, trong đó có khống chế mức lương tối đa theo kết quả sản xuất kinh doanh và mức tiền lương bình quân chung của người lao động. 

Đối với doanh nghiệp làm nhiệm vụ bình ổn thị trường theo nhiệm vụ được Nhà nước giao thì tính toán, xác định để loại trừ làm cơ sở xác định tiền lương, tiền thưởng của người lao động và người quản lý doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dịch vụ công ích, Nhà nước tính đủ chi phí tiền lương phù hợp với mặt bằng thị trường vào chi phí, đơn giá sản phẩm, dịch vụ công ích.

Thứ sáu, tổ chức tốt các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Để chính sách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh được thực thi có hiệu quả cần thiết phải tổ chức và phát triển các hoạt động cung cấp dịch vụ công, nhất là dịch vụ thông tin thị trường lao động, dạy nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm; dịch vụ hỗ trợ phát triển quan hệ lao động trong doanh nghiệp; dịch vụ theo dõi, giám sát, phân tích và dự báo xu hướng tiền lương trên thị trường; dịch vụ về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội… 

Thứ bảy, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát về phân phối tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp. Một mặt, đảm bảo cho thị trường lao động hoạt động khách quan theo đúng nguyên tắc của thị trường; tiền lương, tiền công phải do thị trường quyết định. Mặt khác, phải đảm bảo cho thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; tiền lương, tiền công phải thực sự được phân phối công bằng.

Nguồn: Báo cáo chuyên đề của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ

EnglishVietnam